Vụ tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư giữa nguyên đơn là Công ty TNHH thương mại dịch vụ Bảo Trinh (Công ty Bảo Trinh) và bị đơn Công ty TNHH Giải trí Tổng hợp Thu Trang (Công ty Thu Trang) được TAND TP Thủ Đức xét xử sơ thẩm cuối tháng 9.
Theo nội dung vụ án, tháng 11/2020, Công ty Bảo Trinh ký hợp đồng hợp tác sản xuất và kinh doanh phim với Công ty Thu Trang để góp vốn đầu tư bộ phim điện ảnh Cha tôi là dân chơi.
Các bên thỏa thuận kinh phí sản xuất bộ phim dự kiến là 23 tỷ đồng. Trong đó, Công ty Bảo Trinh góp 2,3 tỷ – tương đương 10%; không có nghĩa vụ góp thêm vốn trong trường hợp chi phí sản xuất phát hành bộ phim lớn hơn dự kiến. Đồng thời, hợp đồng quy định “trong trường hợp doanh thu khai thác bộ phim thấp hơn tổng vốn đầu tư của dự án thì phần chia lợi nhuận cho bên B (Công ty Bảo Trinh) là 10% doanh thu”.
Ngày 24/7/2022, Công ty Thu Trang phát hành bảng kết toán hợp đồng hợp tác kinh doanh phim Dân chơi không sợ con rơi (được đổi từ tên ban đầu Cha tôi là dân chơi) kèm theo bảng tổng kết doanh thu là hơn 24,9 tỷ đồng.
Trong khi đó tổng chi phí cho việc sản xuất phát hành bộ phim là hơn 27,2 tỷ đồng. Như vậy, việc sản xuất bộ phim bị lỗ hơn 2,28 tỷ đồng.
Công ty Bảo Trinh cho rằng, theo thỏa thuận các bên đã ký kết thì nguyên đơn phải được nhận lại phần vốn góp sau khi trừ 10% khoản lỗ, tương đương là hơn 2 tỷ đồng (2,3 tỷ – 10% của khoản lỗ 2,28 tỷ đồng) cùng với khoản lợi nhuận bằng 10% của doanh thu (10% x 24,9 tỷ). Tổng cộng, Công ty Bảo Trinh phải được nhận lại hơn 4,5 tỷ đồng.
Phía nguyên đơn cho rằng Công ty Thu Trang đã “ẩn” số liệu liên quan đến doanh thu của bộ phim. Đến nay, sau khi đã tất toán phim nhưng Công ty Bảo Trinh chỉ nhận được một phần tiền vốn là 1,15 tỷ đồng. Nguyên đơn nhiều lần liên hệ với Công ty Thu Trang để thanh toán phần vốn góp còn lại và doanh thu theo thỏa thuận là hơn 3,4 tỷ đồng nhưng bị đơn không thực hiện, nên yêu cầu tòa buộc công ty này thực hiện.
Công ty Thu Trang: Sẽ hoàn trả hơn 1,3 tỷ đồng
Trình với tòa, đại diện của Công ty Thu Trang xác nhận hai bên có ký thỏa thuận hợp tác sản xuất bộ phim nói trên. Chi phí dự kiến cho bộ phim ban đầu là 23 tỷ đồng, trong đó Công ty Bảo Trinh góp 2,3 tỷ (tương đương 10%). Tuy nhiên, số liệu quyết toán bộ phim sau đó tăng lên 27,2 tỷ đồng. Số liệu này là căn cứ để quyết toán lãi, lỗ giữa Công ty Thu Trang với Công ty Lotte.
Phía Công ty Thu Trang vẫn thống nhất với Bảo Trinh về tỷ lệ góp vốn ban đầu và lợi nhuận mà nguyên đơn được hưởng là 10% lợi nhuận phát hành (doanh thu sau khi trừ đi chi phí). Việc nguyên đơn viện dẫn quy định trong hợp đồng “trong trường hợp doanh thu khai thác bộ phim thấp hơn tổng vốn đầu tư của dự án thì phần chia lợi nhuận cho bên B (Công ty Bảo Trinh) là 10% doanh thu” và yêu cầu khởi kiện đòi số tiền nói trên là “không đúng với bản chất của hợp đồng”.
Theo bị đơn, khi ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh để nhà sản xuất và bên đầu tư chia sẻ rủi ro, trong trường hợp xấu nhất doanh thu khai thác của bộ phim thấp hơn tổng vốn đầu tư là 23 tỷ thì phần chia lợi nhuận cho Công ty Bảo Trinh là 10% danh thu mà không được hoàn vốn.
Để tính toán lời lỗ theo hợp đồng đầu tư phim với Công ty Bảo Trinh, bị đơn đề xuất tính theo cách thức lấy doanh thu thuần hơn 24,9 tỷ đồng trừ đi chi phí sản xuất là 23 tỷ được lợi nhuận là hơn 1,82 tỷ. Công ty Bảo Trinh được nhận 10% số này tương đương với 182 triệu đồng.
Phía Công ty Thu Trang phủ nhận việc “ẩn” thông tin về doanh thu. Bị đơn, đồng ý hoàn trả 2,3 tỷ đồng vốn cùng với 182 triệu đồng tiền lãi. Cấn trừ đi số tiền 1,15 tỷ đồng đã trả trước đó, bị đơn sẽ trả cho nguyên đơn số tiền còn lại là hơn 1,3 tỷ đồng. Phía bị đơn nhiều lần đề nghị Công ty Bảo Trinh nhận lại số tiền này nhưng họ không đồng ý.
Tòa đồng quan điểm với bị đơn
HĐXX sau khi nghị án đã tuyên chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc Công ty Thu Trang hoàn trả cho Công ty Bảo Trinh số tiền hơn 1,3 tỷ đồng bao gồm phần vốn còn thiếu và 10% lợi nhuận phát sinh.
Theo HĐXX, tòa đã yêu cầu Công ty Lotte cung cấp chứng cứ nhưng bên này không phản hồi. Qúa trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn đều đồng ý để tòa sử dụng số liệu giữa Công ty Thu Trang với Lotte làm căn cứ giải quyết vụ án.
Tổng các khoản doanh thu nhiều đợt phát hành phim là hơn 52 tỷ đồng. Sau khi trừ đi phí thuê rạp hơn 26,4 tỷ đồng còn doanh thu thuần là 24,9 tỷ đồng.
Do đó, lợi nhuận phát hành được tính bằng doanh thu thuần của bộ phim (24,9 tỷ đồng) trừ đi phí sản xuất (23 tỷ) là 1,9 tỷ đồng. Công ty Bảo Trinh được nhận 10% của lợi nhuận tương đương 198 triệu đồng.
Tòa cho rằng, yêu cầu của Công ty Bảo Trinh về việc được nhận lại phần vốn cùng với 10% doanh thu là không phù hợp với quy định của Điều 504 Bộ luật Dân sự về hợp đồng hợp tác.
Nguyên đơn đã kháng cáo toàn bộ nội dung vụ án, cho rằng tòa đã không xem xét toàn diện đến chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của họ.
Hải Duyên