Tại báo cáo gửi Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cuối tháng 4, Ngân hàng Nhà nước cho biết, cơ quan này đã trình và được cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương chuyển giao bắt buộc với 4 ngân hàng được kiểm soát đặc biệt, trong đó có 3 ngân hàng mua bắt buộc (CBBank, OceanBank, GPBank) và Ngân hàng Đông Á.
Hiện các nội dung tiếp theo đang được các bên liên quan thực hiện để trình Chính phủ phê duyệt phương án cơ cấu lại các ngân hàng này theo trình tự, thủ tục quy định, theo Ngân hàng Nhà nước.
Với Ngân hàng Sài Gòn (SCB) – nhà băng được đặt vào diện kiểm soát đặc biệt từ tháng 10/2022, Ngân hàng Nhà nước cho biết đang thực hiện các thủ tục đánh giá tổng thể thực trạng để có cơ sở xây dựng phương án cơ cấu lại ngân hàng này, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nửa năm sau khi bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt, theo cơ quan quản lý, hoạt động của SCB “trong tầm kiểm soát, dần ổn định”.
Trong quá trình cơ cấu hệ thống ngân hàng, 3 nhà băng bị mua lại với giá 0 đồng vào năm 2015, gồm Ngân hàng Xây dựng (CBBank), Ngân hàng Đại Dương (OceanBank) và Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GP Bank). Cùng năm này, Ngân hàng Đông Á bị kiểm soát đặc biệt.
Năm ngoái, cơ quan này từng cho biết, biện pháp xử lý với các ngân hàng kiểm soát đặc biệt gồm tìm kiếm đối tác, đàm phán với các nhà đầu tư có nguyện vọng tham gia cơ cấu lại ngân hàng, đồng thời sắp xếp lại mạng lưới hoạt động, tiết giảm chi phí, triển khai các hoạt động kinh doanh an toàn.
Khó khăn lớn nhất khi xử lý các ngân hàng bị mua lại 0 đồng lâu nay là các khoản nợ và lỗ luỹ kế. Chẳng hạn, đến cuối 2019, OceanBank lỗ luỹ kế hơn 17.900 tỷ đồng. Tuy nhiên trong 4 năm gần đây, họ đã liên tục giảm lỗ luỹ kế, năm 2021 cũng là năm lỗ thấp nhất từ 2016 đến nay. Còn CBBank có lỗ luỹ kế hơn 31.000 tỷ đồng đến cuối 2019. Các nhà băng này đều nhận được sự hỗ trợ quản trị, chiến lược từ Vietcombank và VietinBank… sau khi bị mua lại 0 đồng.
Phương án cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém và SCB, Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý phải bảo đảm minh bạch, không thất thoát tài sản.
Liên quan tới xử lý nợ xấu, theo cơ quan quản lý, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối 2022 ở mức 2%. Tuy nhiên, tỷ lệ này đến cuối tháng 2 năm nay đã tăng lên 2,91%, tăng 0,91% so với cuối 2022 và gần gấp đôi cuối năm 2021 (1,49%).
Nợ xấu nội bảng của các ngân hàng được kiểm soát dưới 3%, nhưng theo Ngân hàng Nhà nước, một số khoản nợ chưa phải là nợ xấu nhưng có nguy cơ chuyển nhóm nợ, như các khoản được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ hay các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái.
Nếu tính các khoản nợ tiềm ẩn này và nợ bán cho VAMC chưa xử lý, tổng nợ xấu nội bảng thì nợ xấu của các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 2/2023 khoảng 5% tổng dư nợ, theo Ngân hàng Nhà nước. Cơ quan này cho rằng, cần ghi nhận những khoản này để có giải pháp xử lý, ngăn ngừa nguy cơ chuyển nợ xấu trong tương lai.
Về xử lý nợ xấu, tháng 2/2023, các tổ chức tín dụng xử lý được 21.300 tỷ đồng nợ xấu, trong đó số xử lý nhờ trích lập dự phòng rủi ro chiếm 41%, còn khách hàng trả nợ chiếm gần 49% tổng nợ xử lý.
Bên cạnh xử lý nợ nội bảng, đến cuối tháng 1 năm nay có 416.000 tỷ đồng nợ xấu được xác định và xử lý theo Nghị quyết 42 của Quốc hội. Trong đó, tỷ lệ nợ nội bảng là 211.900 tỷ đồng, tương đương gần 51% tổng nợ xấu đã xử lý.
Các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế hoạch là 122.100 tỷ đồng; nợ đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 82.100 tỷ đồng.
Đến cuối tháng 1, các tổ chức tín dụng đã sử dụng khoảng 223.500 tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết 42 và bán cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt 40.500 tỷ.