Thông tin được TS Võ Văn Hải, Hội Khoa học Kinh tế và Quản lý (Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật TP HCM) nói tại hội thảo nước ngọt cho đồng bằng sông Cửu Long tổ chức sáng 30/6.
Theo phương án được nhóm nghiên cứu gợi ý, vị trí xây hồ chứa tại Đồng Tháp đặt gần vườn quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, diện tích xây dựng khoảng 27.000 ha, dung tích 1,5 tỷ m3 nước.
Theo nhóm nghiên cứu, hệ thống thủy lợi hiện có tại khu vực thuận lợi cho điều tiết dòng chảy mùa hạn, cung cấp nước cho các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre thông qua kênh liên tỉnh. Với phương án này, chi phí cho hồ chứa này khoảng 67.000 tỷ đồng, bao gồm xây dựng và giải phóng mặt bằng. Tổng số hộ dân bị ảnh hưởng gần 8.000 với gần 32.000 nhân khẩu. Theo TS Hải, với mật độ dân cư thấp 281 người mỗi km2, chi phí đền bù giải tỏa tái định cư không quá cao.
Hồ chứa thứ hai nằm gần khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng (Hậu Giang) trên địa phận ba xã Phương Bình, Phương Phú, Tân Phước thuộc huyện Phụng Hiệp. Hồ chứa có dung tích 1 tỷ m3 với dân cư thưa thớt nên chi phí đền bù giải tỏa không quá cao. Tổng diện tích xây hồ dự kiến hơn 17.000 ha. Số hộ dân dự kiến di dời khoảng 11.700 với gần 47.000 nhân khẩu.Tổng mức đầu tư cho công trình khoảng 68.000 tỷ đồng.
Theo nhóm nghiên cứu, việc xây dựng hồ chứa sẽ giúp điều tiết nước cho các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và một phần Kiên Giang, Cần Thơ thông qua hệ thống kênh rạch có sẵn.
TS Hải phân tích, các hồ chứa xây dựng gần các khu bảo tồn thiên nhiên với mục đích dùng nơi này dự trữ nước thông qua hệ sinh thái khu vực. Hai hồ cũng có chức năng cung cấp nước, phòng chống cháy rừng trong mùa khô hạn cho hai khu bảo tồn. “Chúng tôi không khai thác rừng làm hồ nước ngọt”, TS Hải nói.
PGS.TS Tô Văn Thanh, Viện phó Viện khoa học thủy lợi Miền Nam, đánh giá đây là công trình tâm huyết của nhà khoa học, tuy nhiên, thực tế xây dựng hồ chứa nước ở đồng bằng như Tây Nam Bộ có tính chất phức tạp hơn so với xây công trình tương tự ở vùng núi. Cụ thể, đó là kỹ thuật xây hồ trên nền đất yếu, phương thức phân phối nước, vấn đề bảo vệ môi trường…
Ông Thanh cho rằng, việc chuyển nước phục vụ cho sản xuất tại các hồ quy mô lớn cần có hệ thống trạm bơm công suất cao, làm các hệ thống cống bắc qua kênh… Khi xây dựng các công trình này ảnh hưởng đến giao thông, phát triển kinh tế, môi trường tại khu vực. Lãnh đạo viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam cho rằng với diện tích xây dựng lớn tại vùng đồng bằng ảnh hưởng giải phóng mặt bằng, sinh kế người dân sau khi di dời nên cần tính toán kỹ.
PGS Thanh cho biết, từ nay đến 2030 ngành nông nghiệp đầu tư khoảng 10.000 tỷ đồng cho các giải pháp nước ngọt khu vực Tây Nam Bộ. Theo dự báo, nhu cầu nước ngọt cho khu vực này khoảng 18 – 22 tỷ m3, có thể tăng lên 25 tỷ m3 mỗi năm. Trong khi nguồn nước sông MeKong khoảng 475 tỷ m3, về cơ bản là không thiếu nước. Tuy nhiên cần đảm bảo các giải pháp quản lý, khai thác, phân bố nguồn nước từ nơi này sang nơi khác một cách hợp lý.
PGS.TS Phùng Chí Sỹ, Phó chủ tịch Hội nước và môi trường TP HCM cho rằng, việc xây dựng hồ chứa nước gần các khu bảo tồn thiên nhiên cần cẩn trọng. Theo ông, Luật đa dạng sinh học, Luật lâm nghiệp quy định khu bảo tồn thiên nhiên được bảo vệ nghiêm ngặt, thậm chí vùng đệm xung quanh cũng hạn chế can thiệp của con người. Ông cho rằng, việc xây dựng hồ chứa nước ngọt là giải pháp đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt, sản xuất nhưng cần xem xét nhiều khía cạnh khác nhau để đảm bảo hài hòa lợi ích người dân, không làm tổn hại môi trường.
Tại hội thảo nhiều đại biểu đề xuất xây dựng phân tán các hồ chứa quy mô nhỏ, để giảm chi phí xây dựng, giải phóng mặt bằng và khả thi trong vấn đề vận chuyển nước.
GS.TS Nguyễn Văn Phước, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật TP HCM ghi nhận ý tưởng của nhóm tác giả đã tìm ra nguyên nhân, tính tác động và đưa ra giải pháp đối với vấn đề nước ngọt cho Tây Nam Bộ. GS Phước yêu cầu nhóm tác giả tiếp thu các ý kiến phản biện để giải pháp có cơ sở triển khai khả thi hơn.
Góc độ chuyên môn, GS Phước cho rằng, việc xây dựng hồ chứa nước quy mô lớn hay nhỏ cần có các công cụ kỹ thuật, phân tích mô hình dòng chảy để chỉ ra chỗ nào thiếu nước làm cơ sở lựa chọn xây dựng công trình phù hợp. GS Phước đề xuất cơ quan chức năng cần có chính sách thúc đẩy các giải pháp quản lý tài nguyên nước mang tầm quốc gia, quốc tế.
Hà An