TAND quận 6 đã tổ chức buổi hòa giải và công khai chứng cứ trong vụ tranh chấp bồi thường oan sai giữa nguyên đơn – ông Trịnh Dân Cường, và bị đơn là VKSND quận 6, ngày 9/6.
Tại buổi làm việc, ông Trịnh Dân Cường và người đại diện theo uỷ quyền trình bày yêu cầu tòa buộc VKSND quận 6 ra quyết định đình chỉ bị can; xin lỗi công khai, phục hồi danh dự; bồi thường tổn thất tinh thần, vật chất do bị mất sức lao động, thu nhập… tổng cộng hơn 6 tỷ đồng.
Kiểm sát viên Nguyễn Thị Thanh Loan, người đại diện theo uỷ quyền của VKSND quận 6, giữ nguyên quan điểm không đồng ý với các yêu cầu của ông Cường như trong các văn bản trả lời khiếu nại trước đó.
Theo VKS, ông Cường bị bắt giam, giữ trái pháp luật xảy ra trước ngày 1/7/1996 và được xác định là oan sai bởi bản án phúc thẩm ngày 21/2/1990 của TAND Tối cao tại TP HCM. Tuy nhiên, đến nay ông Cường mới nộp đơn yêu cầu được bồi thường thiệt hại và yêu cầu này đã hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật. Do đó, VKSND quận 6 không giải quyết yêu cầu của ông Cường.
Các bên chưa tìm được tiếng nói chung nên buổi hòa giải không thành.
Theo hồ sơ vụ án, khuya 27/2/1985, Công an quận 6 nhận được trình báo vụ mất trộm vàng tại căn nhà trên đường Bãi Sậy, phường 7. Ông Cường cùng người anh vợ là Hồ Văn Được và người anh cột chèo Trần Đức Ẩn bị nghi ngờ là thủ phạm nên bị Công an quận 6 bắt tạm giam.
Quá trình điều tra ông và hai người anh đều kêu oan. Vì bị bức cung ép nhận tội, đêm 8/4/1985, anh vợ của ông đã tự tử tại trại giam Chí Hòa. Lúc này việc bắt tạm giam đối với những người bị tình nghi vẫn chưa được VKS phê chuẩn.
Sau hơn hai tháng tạm giam 3 anh em ông Cường, việc điều tra vẫn không có kết quả do không tìm được chứng cứ buộc tội. Lúc này, để hợp thức hóa việc bắt người trái pháp luật, thiếu tá Nguyễn Hữu Đô (Đội trưởng Cảnh sát hình sự Công an quận 6) đã chỉ đạo những cán bộ trong đội viết lệnh tạm giam và quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can lùi lại một tháng trước ngày ông Được chết (ngày 9/3/1985). Đô sau đó chuyển các lệnh và quyết định này sang VKS và được ông Nguyễn Tấn Đồng, Viện trưởng VKSND quận 6, ký phê chuẩn.
VKSND quận 6 sau đó kết luận không có chứng cứ buộc tội nên ông Cường và Ẩn được trả tự do từ ngày 23/8/1985. Tuy nhiên, đến ngày 19/9/1985, Công an quận 6 mới thả ông Ẩn về. Riêng ông Cường bị chuyển lên trại giam Tống Lê Chân (Bình Dương) để cải tạo tập trung khi chưa có quyết định của UBND thành phố và UBND quận 6 cũng không hay biết.
Sau thời gian gia đình ông Cường đi khiếu nại, ngày 3/12/1986, Công an TP HCM mới ra quyết định trả tự do cho ông Cường với lý do ông “không liên quan đến vụ trộm tiệm vàng trên đường Bãi Sậy”.
Ông Cường cho biết từ đó đến nay đã liên tục khiếu nại lên VKS và Công an quận 6, nhưng chỉ nhận được phiếu chuyển đơn chứ không cơ quan nào giải quyết.
Công an quận 6 cho rằng, thời điểm này không có Bộ luật Tố tụng hình sự mà chỉ có sắc lệnh số 02 năm 1957, nên quyết định trả tự do cho ông là quyết định có giá trị cao nhất.
Nhiều năm trước, ông Cường từng làm đơn khởi kiện VKS ra TAND quận 6 nhưng do vụ án kéo dài, thời gian đã lâu, không thu thập được các tài liệu, chứng cứ liên quan để nộp nên tòa không thụ lý.
Đầu năm ngoái, ông được TAND quận 6 thụ lý vụ kiện sau khi trích lục được bản án của TAND TP HCM và TAND Tối cao tại TP HCM liên quan đến việc xét xử các cán bộ gây oan cho mình.
Quá trình giải quyết đơn khiếu nại của ông Cường, TAND quận 6 từng có văn bản gửi VKSND TP HCM xin hồ sơ vụ án, song cơ quan này không lưu trữ. VKSND quận 6 cũng xin ý kiến viện thành phố về việc giải quyết của ông Cường. Ban đầu, phòng nghiệp vụ của VKSND TP HCM có văn bản trả lời (năm 2017) đồng quan điểm với VKS quận 6, rằng yêu cầu bồi thường của ông đã hết hiệu lực.
Tuy nhiên, trong công văn gửi VKSND quận 6 sau này (ngày 3/3/2020), VKSND TP HCM cho rằng, ông Cường được xác định là oan sai theo bản án của tòa, Công an quận 6 đã ra quyết định trả tự do cho ông thì phải ra quyết định đình chỉ. Căn cứ áp dụng là mục 3 chương II Thông tư liên Bộ Công an – VKSND Tối cao số 427 ngày 28/6/1963, quy định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ công tác giữa VKS và Bộ Công an, nhưng Công an quận 6 đã không áp dụng.
VKSND TP HCM đồng thời chỉ đạo VKSND quận 6, xem xét giải quyết đơn của ông Cường một cách khách quan, toàn diện; phối hợp Cơ quan CSĐT Công an quận ghi lời khai của ông Cường, xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng, cuộc sống và các quyền công dân của ông Cường. Từ đó, thống nhất ý kiến để có hướng giải quyết.
Sau khi xác minh tình trạng của ông Cường hiện nay là rất khó khăn và không còn sức lao động. Tuy nhiên VKSND quận 6 vẫn giữ nguyên quan điểm không chấp nhận yêu cầu bồi thường oan sai với lý do “hết thời hiệu giải quyết”.
VKSND quận 6 cho rằng, việc cơ quan này vừa là bị đơn vừa là cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát đối với vụ kiện sẽ không đảm bảo khách quan. Do đó, VKS quận 6 đề nghị TAND quận 6 có văn bản kiến nghị TAND TP HCM rút vụ án để giải quyết.
Hải Duyên