Olympic 1900 diễn ra ở Paris, quy tụ gần 1.000 vận động viên, thi 21 môn trong đó golf lần đầu xuất hiện trong chương trình. Phần golf hồi ấy theo thể thức đấu gậy cá nhân, qua 36 hố cho nam và chín hố cho nữ, trên sân Compiègne cách thủ đô Pháp 50 km. Nội dung đơn nữ chỉ có 10 đại diện chia đều cho Pháp và Mỹ.
Chung cuộc, đội Mỹ lấy cả top 3 trong đó vị trí nhất cho Margaret Abbott với 47 gậy. Thời điểm cạnh tranh, Margaret Abbott mới tròn 22 tuổi, chơi golf nghiệp dư với điểm chấp 2.0 và kiểu vung gậy được khen “đẹp kinh điển”.
Danh sách thi môn golf Paris 1900 cũng có cả mẹ của Abbott – bà Mary.
Tuy nhiên, Mary chỉ cán đích T7, ở mức 65 gậy. Sau này, Margaret kể với gia đình rằng khi đấu golf ở Paris, bà thắng cũng nhờ chọn đúng trang phục – váy dài, mũ rộng vành, còn mấy cô người Pháp thua do hiểu nhầm bản chất golf, thể hiện qua váy bó, mũ rộng vành.
Khi về nhất, Margaret nhận được chiếc bát sứ mạ vàng. Đó được xem là ngôi vô địch đầu tiên cho thể thao nữ Mỹ trong lịch sử Olympic. Nhưng sau chiến công đó, đến khi qua đời vào tháng 6/1955, Margaret cũng không biết bà thắng giải golf trong khuôn khổ Olympic. Bởi Paris 1900 chỉ mới sang kỳ thứ hai của Thế vận hội hiện đại, lại là hoạt động bên lề Hội chợ thế giới, cũng ở thủ đô Pháp. Qua sự thu xếp này, Ban tổ chức Olympic, khi còn non trẻ, muốn nương theo World’s Fair để phát triển danh tiếng và uy tín về sau.
Và do đó, Paris 1900 chấp nhận vị trí thứ yếu với danh xưng “Cuộc thi thể chất và thể thao quốc tế”, không có lễ khai mạc và bế mạc chung cũng như tất cả nội dung trong chương trình thi đấu, có cả kéo co và hàng loạt môn vui mắt như đua bồ câu, thả diều, biểu diễn khinh khí cầu, kỹ năng cứu sinh. Cả sự kiện kéo từ tháng 5 đến tháng 10, chỉ có 22 nữ, thi năm môn, gồm golf, tennis, bóng vồ (croquet), cưỡi ngựa và đua thuyền.
Gần đến khai mạc, mẹ con Abbott đang ở Paris để bà Mary thu thập tư liệu cho sách hướng dẫn du lịch – ẩm thực tại thủ đô Pháp, còn Margaret nghiên cứu mỹ thuật. Sau khi tình cờ đọc bài về hoạt động Expo 1900, Margaret rủ Mary đăng ký thi và qua đó tình cờ trở thành cặp mẹ con đầu tiên thi đấu cùng môn, cùng nội dung Olympic. Ngoài việc cùng mẹ dự golf, Margaret còn góp mặt ở tennis đơn nữ. Môn này Margaret bị loại sớm, còn golf thì về nhất, vào ngày 3/10/1900.
Mang chiếc bát sứ mạ vàng cho ngôi vô địch golf về nhà, Margaret cứ bảo đó là phần thưởng từ cuộc thi thông thường. Chiến tích của Margaret tại Paris 1900 suýt bị lãng quên, trôi hơn tám thập kỷ mới “truy công” nhờ nữ Giáo sư Paula Welch công tác tại Đại học Florida, từng là nhân vật cấp cao trong Ban tổ chức Olympic.
Wench phát hiện tên Margaret được khắc trên tấm bia trong trụ sở Uỷ ban Olympic và Paralympic Mỹ tại New York. Thời điểm đó, Wench đã xong luận án tiến sĩ về giới nữ nước nhà tại Thế vận hội nhưng lại không hề biết Margaret trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài đó.
Thấy Margaret là trường hợp thú vị, giáo sư Welch từ giữa thập niên 1970 đã cất công thu thập tài liệu, mất 10 năm, kể cả thời gian tìm cách liên lạc với hậu duệ của Margaret. Cuối cùng, bà tìm được địa chỉ nhà con trai Margaret – Philip Dunne, từ trường cũ của người này là Đại học Harvard.
Được hồi âm số điện thoại sau thư ngỏ, Welch đã thông báo cho Dunne kết luận rằng, chính mẹ Margaret của ông đã mang về chiếc huy chương vàng đầu tiên cho thể thao nữ Mỹ trong lịch sử Thế vận hội. “Đó là ngày đặc biệt, khi sau hơn 80 năm mới nhận tin xác định mẹ tôi là nhà vô địch Olympic. Trước đó, bà chỉ bảo thắng được giải golf ở Paris”, Dunne chia sẻ trên Golf Digest hồi 1984.
Paris đang dần khép lại lịch Olympic 2024, trong đó golf sang vòng cuối nội dung đơn nữ trên sân Albatross par72, từ 2h chiều nay, 10/8, giờ Hà Nội. Vị trí dẫn khi kết thúc vòng 3 đang ở thế T1, thuộc về Lydia Ko (New Zealand) và Morgan Metraux (Thuỵ Sỹ) cùng -8. Sau T1 là tám tuyển thủ trong tầm tranh huy chương, trải từ -7 đến -4. Phân khúc này có đại diện Mỹ Nelly Korda đang là đương kim vô địch và số một thế giới, ở mức -4.
Nội dung golf đơn nam kết thúc hôm 4/8 với HC vàng cho số một thế giới Scottie Scheffler (Mỹ), bạc cho Tommy Fleetwood (Anh), đồng cho Hideki Matsuyama (Nhật). Scheffler thắng ở điểm -19, Fleet cán đích -18, Matsuyama về -17 khi Ban tổ chức thiết lập Albatross theo kiểu par71.
Quốc Huy